Thứ nhất: Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn:
Căn cứ theo quy định tại Điều 51 Luật Hôn nhân Gia đình 2014 quy định quyền yêu cầu giải quyết đơn phương ly hôn cụ thể như sau:
“Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”
Như vậy, khi chồng đi nước ngoài người vợ hoàn toàn có quyền đơn phương ly hôn và yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
Thứ hai: Trường hợp không biết địa chỉ của chồng ở nước ngoài thì tiến hành thủ tục đơn phương ly hôn như thế nào?
Theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của TAND tối cao có ý kiến về việc giải quyết vướng mắc vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ như sau:
“Trường hợp người Việt Nam ở trong nước xin ly hôn với người Việt Nam chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam của bị đơn mà không cung cấp được địa chỉ của bị đơn ở nước ngoài, nếu thông qua thân nhân của bị đơn mà có căn cứ để xác định họ vẫn có liên hệ với thân nhân ở trong nước nhưng thân nhân của họ không cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Tòa án cũng như không thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết để gửi lời khai về cho Tòa án thì coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết.
Nếu Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Tòa án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết thì Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung. Sau khi xét xử, Tòa án cần gửi ngay cho thân nhân của bị đơn bản sao bản án hoặc quyết định để những người này chuyển cho bị đơn, đồng thời tiến hành niêm yết công khai bản sao bản án, quyết định tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bị đơn cư trú cuối cùng và nơi thân nhân của bị đơn cư trú để đương sự có thể sử dụng quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật tố tụng.”
Từ đó, ta có thể hiểu rằng Tòa án thụ lý đơn ly hôn của đương sự sẽ xác minh thông tin cư trú cuối cùng của Bị đơn thông qua người thân, hoặc xác minh tại Cục Quản lý xuất nhập cảnh, nắm bắt địa chỉ cuối cùng để làm căn cứ giải quyết.
Trường hợp nếu không rõ địa chỉ, Tòa án vẫn xem xét giải quyết theo quy định chung và xét xử ly hôn vắng mặt Bị đơn.
Ngoài ra, căn cứ tại điểm b Điều 2 Mục II Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP quy định như sau:
“b. Trường hợp bên đương sự là bị đơn đang ở nước ngoài không có địa chỉ, không có tin tức hoặc giấu địa chỉ nên nguyên đơn ở trong nước không thể biết địa chỉ, tin tức của họ, thì giải quyết như sau:
– Nếu bị đơn ở nước ngoài không có địa chỉ, không có tin tức gì về họ (kể cả thân nhân của họ cũng không có địa chỉ, tin tức gì về họ), thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và giải thích cho nguyên đơn biết họ có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án cấp huyện nơi họ thường trú tuyên bố bị đơn mất tích hoặc đã chết theo quy định của pháp luật về tuyên bố mất tích, tuyên bố chết.
– Nếu thông qua thân nhân của họ mà biết rằng họ vẫn có liên hệ với thân nhân ở trong nước, nhưng thân nhân của họ không cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án, cũng như không thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết để gửi lời khai về cho Toà án, thì coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Nếu Toà án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết, thì Toà án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung. Sau khi xét xử Toà án cần gửi ngay cho thân nhân của bị đơn bản sao bản án hoặc quyết định để những người này chuyển cho bị đơn, đồng thời tiến hành niêm yết công khai bản sao bản án, quyết định tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi bị đơn cư trú cuối cùng và nơi thân nhân của bị đơn cư trú để đương sự có thể sử dụng quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật tố tụng.”
Như vậy, việc bị đơn hoặc thân nhân trong nước không cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn thì sẽ coi đây là hành vi cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo thì Tòa án sẽ tiến hành đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung.
Thứ ba: Thẩm quyền giải quyết đơn phương ly hôn trong trường hợp một bên ở nước ngoài:
Căn cứ theo Điều 35, Điều 37 Bộ luật dân sự năm 2015 trường hợp một bên đương sự đang ở nước ngoài và một bên ở Việt Nam sẽ được xác định là ly hôn có yếu tố nước ngoài. Như vậy, tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi bị đơn có hộ khẩu thường trú trước khi xuất cảnh.
